Cả hai người hốt hoảng nhìn lên thì thấy có một con rắn hổ mang rất lớn, đuôi quấn lấy xà nhà, đầu vươn gần chỗ ông nằm, miệng nhả một viên ngọc. Ông vừa cầm lấy thì bỗng nghe được tiếng rắn xổ số minh ngọc miền nam mưa rơi lớp 6a642Trường Tiểu học C hongwen và Trường T iểu học Anwai Sa ntia o là lứa đầu tiê n củ a các trườ ng bóng đá t rong khu ôn viên qu ốc g ia dành cho tha nh th iếu niên. Bai Sh ulan, hiệu trưởng trường tiểu học Chon gwen, tin rằng những g ì bó ng đá man g lại cho tr ẻ em c hính là về sau t thấy hoàng thuoẹng mê sắc quá đáng chứ đoạn lãnh cung về sau ổng quá ok mà.vua 1 nước mà cư xử vậy quá ok rôù nên nhớ chỉ có đàn ông tốt 1 thời,ko có đàn ông tốt 1 đời.thế thôi Top 10 truyện lịch sử quân sự hay nhất đã được cập nhật ở trên đây, Mời bạn đọc cùng thưởng thức top 10 truyện lịch sử quân sự hay nhất dưới đây nhé!Tay Súng Bắn Tỉa Lạc Về Thời Tam QuốcTác giả: Đông Nhất PhươngThể loại: Lịch sử, Quân sựSố chương: 1321 chươngNhân vật chính là Vương Xán, sau jjxv5. Ngày xưa ở cửa Sót thuộc Hà-tĩnh có một người làng chài có sức khỏe hơn đời. Ông ta làm việc gấp đôi gấp ba người thường, sức ăn mỗi bữa có thể hết một nồi mười cơm. Nghề vật thì rất giỏi, những tay đô vật trong vùng đều hàng phục. Ông ta vẫn lấy thế làm kiêu hãnh. Nghe tiếng đồn về một người kẻ Ngật tên là ông Ồ có sức khỏe đặc biệt, nên ông có ý muốn tìm đến đọ tài một phen. Nghĩ vậy, một hôm ông quảy hai chum kiệu nước mắm tìm đường đến kẻ Ngật để nhân bán nước mắm dò hỏi cho ra ông Ồ, xem thử mặt mũi thế nào. Ông đến kẻ Ngật thì trời vừa trưa. Thấy có một ông già đang cày ruộng bên đường, ông bèn dừng lại hỏi thăm - Cụ làm ơn chỉ giúp đường vào nhà ông Ồ. Ông già đáp - Chính tôi là ông Ồ đây, ông muốn hỏi việc gì? Khách chưa biết ông Ồ là người thế nào nên không muốn nói vội mục đích của mình là thi tài, chỉ đáp - Tôi nghe tiếng nên muốn đến làm quen. - Ông chịu khó chờ một tý, ông già đáp, chỉ còn vài dường cày nữa là xong, tôi sẽ đưa ông về nhà chơi! Nói rồi ông già giục trâu cày nhanh. Người làng chài đặt gánh bên vệ đường chờ. Bỗng nghe "rắc" một tiếng, nhìn lại thì ra cái náp[5] cày bị gãy, người làng chài nghĩ bụng - "Thôi gãy náp rồi, thế nào ông này cũng phải về thôi!". Nhưng ông ta lấy làm ngạc nhiên khi thấy ông Ô thò ngón tay trỏ của mình vào chỗ vẫn xỏ cái náp để thế cho cái náp, rồi giục trâu đi như không có việc gì xảy ra. Người làng chài chột dạ, nghĩ bụng - "Trời ôi! Ông này phải là xương đồng da sắt thì mới dám dùng ngón tay thay cho cái náp". Sau khi cày xong, người làng chài thấy ông Ồ thôi cày, tháo ách cho trâu nghỉ, rồi rửa cày đưa lên bờ ruộng. Bỗng lại thấy ông Ồ xuống ruộng dùng hai cánh tay nhấc bổng trâu lên khỏa chân trâu mấy cái ở vũng nước cho sạch bùn rồi bỏ lên bờ. Ông kia thấy vậy từ chột dạ đến kinh ngạc, nhưng vẫn nghĩ bụng - "Nhấc bổng trâu như vậy chưa chắc đã là khỏe". Nghĩ vậy, không hỏi gì thêm, ông ta chỉ lẳng lặng quảy hai chum kiệu theo ông già về xóm. Ông Ồ đưa khách về đến nhà rồi nói - "Chẳng mấy khi ông quá bộ tới chơi, mời ông ở lại ăn cơm với chúng tôi". Đoạn, ông lấy chiếc bung ra bắc lên bếp, đổ gạo vào rồi đi nhóm lửa. Một đứa cháu của ông đang ngủ bỗng thức dậy khóc ré lên, ông phải chạy lại ẵm cháu rồi bảo khách - Trong nhà hết mất củi, ngoài góc vườn đàng Đông có một gốc tre khô, nay tôi bận thằng cháu, phiền ông ra lôi nó vào đây ta đun. Khách đi ra được một lát lại trở vào mượn cái thuổng để xắn gốc tre. Ông Ồ nói - Thằng con tôi nó mang đi làm chưa về. Cái gốc tre khô ấy cũng dễ nhổ thôi? Nói đoạn ông chạy ra vườn, một tay vẫn bế cháu, một tay lay gốc tre khô chỉ vài lần là đã bật gốc. Đến đây khách từ kinh ngạc đến thán phục, nhưng vẫn không nói gì. Cơm vừa chín, ông Ồ đặt mâm, dọn cà mắm và mời khách ăn thực tình cho. Người làng chài cố nuốt lắm mới hết một phần ba bung cơm. Nhưng ông ta lấy làm kinh ngạc khi thấy chủ nhân cứ ngồi tỳ tỳ chén hết số cơm còn lại trong bung mà coi bộ vẫn còn thòm thèm. Ăn xong, chủ khách ngồi uống nước. Ông Ồ lúc này mới hỏi khách - Chẳng hay ông đến gặp tôi có việc gì? Người làng chài không còn dám nói ý định của mình trước đây nữa, chỉ múc ra một vò nước mắm và nói - Tôi nghe tiếng ông khỏe nên mang đến tặng ông một vò nước mắm làm quen. Rồi đó người làng chài quảy hai chum kiệu đi thẳng[6]. KHẢO DỊ Truyện này ở Hà-tĩnh có nhiều địa phương kể khác nhau về một ít tình tiết. Ví dụ có người kể Một người quảy hai chum kiệu nước mắm đi tìm một người ở đây tên là ông Cồ để đọ tài. Cũng gặp một cụ già cày ruộng. Cụ này không phải là ông Cồ lúc cày xong cũng nhấc bổng trâu lên để khỏa chân trâu vào vũng nước cho sạch làm cho khách chột dạ nghĩ rằng không phải ông Cồ mà khỏe như thế, chắc ông Cồ còn khỏe đến đâu. Đến nhà ông Cồ thì chủ nhân đi vắng, chỉ có một người trẻ tuổi ra tiếp. Người này nấu lên một bung cơm thết khách nhưng cũng như truyện trên, khách chỉ ăn được một phần ba, còn bao nhiêu người trẻ tuổi ăn hết cả. Khách lại thêm một ngạc nhiên, nghĩ bụng nếu là ông Cồ thì ăn còn khỏe đến đâu. Đang trò chuyện thì bỗng có hai con trâu húc nhau trước ngõ. Người trẻ tuổi xin phép đi gọi ông bác để nhờ ông can giúp hai con trâu. Ông bác đến, mỗi tay ông nắm chắc lấy một sừng con vật rồi đẩy lùi chúng ra xa. Trong này khách kinh sợ nghĩ rằng không nổi tiếng như ông Cồ mà họ khỏe đến thế, nếu là ông Cồ thì còn khỏe đến đâu. Nghĩ vậy nhân lúc người trẻ tuổi chưa về, khách quảy hai chum kiêu nước mắm tếch thẳng. Hay lại có người kể Ở Đông-kèn có một người bán nước mắm tự cậy mình có sức khỏe. Nghe tin ở Đỉnh-lự đều thuộc Hà-tĩnh có một người khác khỏe nổi tiếng bèn cũng gánh hai chum kiệu nước mắm định đến thử sức. Đến nơi cũng gặp một người đi cày và sau khi hỏi thăm nhà, người cày bảo hãy đặt gánh chờ một lát. Nhưng người kia không chịu đặt cứ để gánh trên vai mà chờ. Lát sau người đi cày mở trâu và cũng nhấc bổng trâu khỏa chân rồi khi về qua một chiếc cầu tre, ông ta cũng nhấc bổng trâu đưa trâu qua cầu. Thấy vậy, người gánh nước mắm đã biết sức khỏe của đối phương như thế nào rồi, vội cáo từ trở về. Xem thêm truyện Đô hùng đại tướng quân ở Khảo dị truyện Gốc tích ruộng thác đao số 25, tập I. Chú thích [1] Mét một loại tre lớn. [2] Theo lời kể của người Hà-tĩnh. [3] Theo lời kể của người Phú-thọ. Hiện nay ở gần vực xã Thượng nông, Vĩnh-phú có miếu ông Hộ. [4] Của Nguyễn Khắc Xương. [5] Náp miếng gỗ hay tre như cái chốt dùng để điều chỉnh cày sâu hay cạn. Ở Bắc-bộ gọi là "cá cày". [6] Theo lời kể của người Hà- tĩnh. Khi đến chùa, từ ngoài cổng đi vào chúng ta nhìn bên phải thấy tượng một vị rất hiền hòa, dân gian gọi đó là Ông thiện. Đó hình tượng của Ngài Vi Đà Hộ Pháp. Còn bên trái là tượng một vị rất dữ dằn, dân gian gọi đó là Ông ác. Đó hình tượng Tiêu Diện Đại Sĩ hoá thân của Bồ Tát Quan Thế Âm. Vi Đà Bồ Tát nguyên là thiên thần Thất Kiện Đà của đạo Bà La Môn, là con trai của thần Hộ pháp Phật giáo Đại Tự Tại Thiên, sau đó trở thành thần Hộ pháp của Phật giáo. Trong hàng ngũ những vị thiên thần Hộ pháp thì Vi Đà nổi danh bởi tài năng chạy nhanh như bay. Tương truyền sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt, chư Thiên thần và chúng Vương bàn về việc hỏa thiêu di thể, nhặt Xá lợi thờ trong tháp. Lúc này Đế Thích Thiên cầm bình thất bảo đến chỗ thiêu để lấy Xá lợi vì trước kia Ngài đã được Đức Phật chấp thuận cho một chiếc răng đem về để dựng tháp thờ. Nhưng khi ấy có quỷ La Sát nấp bên người Đế Thích Thiên, thừa lúc Ngài không chú ý bèn trộm răng Phật. Vi Đà Tôn Thiên trông thấy bèn đuổi theo, nhanh như tia chớp, trong nháy mắt đã bắt được quỷ La Sát tống vào ngục, trả lại răng Phật cho Đế Thích Thiên, được chư Thiên khen ngợi. Từ đó về sau, Vi Đà được cho là có thể xua đuổi tà ma, bảo hộ Phật pháp, gánh vác trọng trách bảo vệ linh tháp stupa của Phật Tổ chứa xá lợi Phật. Kể từ đó hình tượng Vi Đà được song hành cùng linh tháp chứa Xá lợi, mang ý nghĩa bảo vệ an toàn cho Đức Phật. Tiêu diện đại sĩ là vị Bồ Tát chuyên hàng phục quỷ yêu, cứu độ chúng sanh. Hóa thân của ngài Bồ Tát Quan Thế Âm mặt trước là hình tượng mang sắc tướng nữ, rất mực từ bi với dương chi ngọc liễu và bình cam lồ sẵn sàng độ sanh giải nạn. Mặt sau của hóa thân là hình tướng nam, là một vị thần dáng điệu oai nghiêm, trang phục võ tướng nhiều màu sắc sặc sỡ, tay phải cầm lá cờ, tay trái chống nạnh, gương mặt quái dị hung dữ với 3 cái sừng nhọn trên đầu và trán, hai mắt lồi to trợn ngược dữ tợn, sáng hoắc, cái miệng rộng nhe răng lởm chởm, khạc ra lửa khói, đặc biệt nhất là chiếc lưỡi thè cong dài xuống tới ngực. Chiếc lưỡi là biểu tượng uy quyền, đặc trưng nhất của ông Tiêu. Trong cái thế giới bóng tối dày đặc của ma quỷ, ông Tiêu xuất hiện với gương mặt hung dữ, dễ sợ để xua đuổi ma quỷ, ma quỷ tránh né ông bằng cách chạy về phía có ánh sáng, nơi đó ma quỷ sẽ được cứu vớt ra khỏi ác đạo. Nhiều người thắc mắc chùa là nơi hướng dẫn Phật tử trở về con đường lành, thờ Ông thiện đủ rồi, tại sao lại thờ Ông ác? Thật ra, bản ý của chư Tổ qua hai hình tượng Ông thiện Ông ác, mang một ý nghĩa thâm trầm, cao siêu hơn. Bởi vì lòng từ bi trong nhà Phật lúc nào cũng muốn đem lại sự an vui lợi lạc cho tất cả chúng sanh, nhưng do trình độ chúng sanh không giống nhau, nên các phương tiện hóa độ của chư Phật, Bồ Tát cũng khác nhau. Có người dùng lời hiền hòa, cử chỉ thương yêu chỉ dạy họ liền cảm mến nghe theo. Có người ngang bướng dùng lời hiền hòa nói họ không chịu nghe, buộc lòng phải có thái độ dường như ác dữ mới chuyển họ được. Như trên đã nói, Bồ Tát Quan Thế Âm vì phương tiện cứu độ loài quỷ đói, không để họ tiếp tục gây tạo ác nghiệp ăn thịt người nữa; nên vì lòng đại từ bi, Bồ Tát Quan Thế Âm đã phải hiện thân vào loài quỷ đói, đóng vai ông ác, để rồi cuối cùng cảm hóa được loài chúng sanh này.

truyện cổ tích việt nam ông thiện ổng ác